Chủ nghĩa hành vi là một khái niệm xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào thế kỷ 20. Người tạo ra nó là John B. Watson. Tâm lý học mang ơn rất nhiều cho lĩnh vực nghiên cứu này – nó đã mở rộng đối tượng nghiên cứu của mình (từ việc chỉ sử dụng phương pháp xem xét nội tâm thành khoa học về các cơ chế hoạt động của con người).
Behaviorism được sử dụng trong thực hành tâm lý hiện đại, và kết quả tích cực của liệu pháp hành vi đã được khoa học xác nhận.
Behaviorism là gì
Xu hướng này được hình thành ở Hoa Kỳ và là một loại từ trái nghĩa với các trào lưu tâm lý thịnh hành vào thời điểm đó, chủ yếu dựa trên sự phân tích nội dung của ý thức (ví dụ, phân tâm học), sự hiểu biết về nó chỉ có ở Người quan tâm.
Thay vào đó, chủ nghĩa hành vi tập trung vào nghiên cứu hành vi của con người và động vật có thể tiếp cận và quan sát trực tiếp được. Hành vi được định nghĩa là những thay đổi sinh lý và phản ứng vận động tạo thành phản ứng của cơ thể đối với một sự kiện nhất định, tức là những kích thích phát ra từ môi trường xã hội và tự nhiên.
Tâm lý học hành vi cho rằng bạn cần nghiên cứu mối quan hệ giữa phản ứng và kích thích. Mục tiêu của nghiên cứu đó là có thể dự đoán và do đó ảnh hưởng đến hành vi.
Người sáng lập lý thuyết
Sự khởi đầu của chủ nghĩa hành vi là do tính cách của John B. Watson. Năm 1913, ông xuất bản một tuyên ngôn về hành vi, trong đó ông giải thích rằng tất cả các hành vi đều có dạng phản ứng kích thích (SR). Watson nói rằng mục tiêu chính của tâm lý học nên là dự đoán và kiểm soát hành vi. Ông tuyên bố thiếu phân tích các trạng thái bên trong trong nghiên cứu khoa học.
Nhà nghiên cứu muốn tâm lý học càng gần càng tốt với khoa học tự nhiên (ví dụ, hóa học hoặc vật lý). Điều gì khác đặc trưng cho chủ nghĩa hành vi? Watson cho rằng nên sử dụng các phương pháp như giải thích và phương pháp luận trong nghiên cứu tâm lý. Trong khái niệm hành vi của mình, Watson dựa trên nghiên cứu được thực hiện bởi nhà sinh lý học người Nga Ivan Pavlov, người đã nghiên cứu hành vi có điều kiện ở các loài động vật khác nhau.
Chủ nghĩa hành vi phát triển vào đầu thế kỷ 20. Những hiện tượng như phát hiện ra quy luật tác động của Edward Thorndike, thuyết tiến hóa của Darwin về sinh vật, và các thí nghiệm điều hòa cổ điển của Pavlov đã ảnh hưởng đến sự sáng tạo của nó theo nhiều cách. Tất cả điều này đã cho thấy rõ hành vi quan trọng như thế nào và vai trò to lớn của môi trường đối với sự sống của các sinh vật.
Đại diện của chủ nghĩa hành vi:
Các tác giả chính của thuyết hành vi là: John Watson, Burrhus Skinner, Ivan Pavlov, Clark Hull và Edward Tolman. Chủ nghĩa hành vi hiện đại được Skinner phát triển trong khái niệm không tưởng của ông về một xã hội có cấu trúc hợp lý đảm bảo an ninh và thịnh vượng cũng như loại bỏ các hình phạt cho đến nay vẫn được sử dụng để kiểm soát hành vi. Trong số những người nổi tiếng đã sử dụng các khái niệm về chủ nghĩa hành vi trong các tác phẩm của họ là Tadeusz Borowski, Ernest Hemingway, Juliusz Kaden-Bandrowski.
Các quy định của chủ nghĩa hành vi
Lý thuyết hành vi nhấn mạnh rằng hành vi được xác định bởi một hệ thống hình phạt và phần thưởng cho phép bạn tự do điều khiển hành vi đó. Theo xu hướng này, hiểu biết của con người về thế giới xảy ra thông qua thực nghiệm, có nghĩa là nó học được những phản ứng nhất định đối với những kích thích thích hợp dẫn đến việc đạt được phần thưởng. Do đó, người ta cho rằng chẳng có ích lợi gì khi quan tâm đến tâm lý và người ta nên tập trung hoàn toàn vào hành vi.
Một giả định quan trọng của chủ nghĩa hành vi là sự kiểm soát bên ngoài của một người. Dựa trên lý thuyết này, khái niệm phần thưởng và hình phạt đã được phát triển. Phần thưởng là một kích thích làm tăng tần suất của một hành vi cụ thể (dẫn đến việc đạt được phần thưởng), trong khi hình phạt là một kích thích làm giảm tần suất. Cần lưu ý rằng ý tưởng của các nhà hành vi cho rằng mọi hành động của cá nhân chỉ là phản ứng đối với các kích thích là cực kỳ cấp tiến. Như vậy, người đó gần như bị tước tự do hoàn toàn. Điều rất quan trọng là phải thuyết phục các nhà hành vi rằng con người là một thực thể phản ứng. Điều này có nghĩa là các cá nhân thụ động và chỉ có môi trường là hoạt động.
Chủ nghĩa hành vi trong tâm lý học
Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng chủ nghĩa hành vi có liên quan chặt chẽ với khái niệm thuyết tất định triết học. Lý thuyết về hành vi không có chỗ cho hoạt động chủ quan của con người. Con người theo chủ nghĩa hành vi là một phần nhỏ của vũ trụ, thường xuyên tiếp xúc với các tác động bên ngoài (môi trường). Các nhà hành vi học lập luận rằng tâm lý học phải là khoa học khách quan nhất, giống như khoa học tự nhiên.
Thuyết hành vi giới hạn các khả năng tự nhiên của con người như tình yêu, bản sắc, sự sáng tạo và quyền tự chủ. Cô ấy cũng lập luận rằng tất cả các phản hồi đã học có thể được kiểm soát và thao tác một cách tự do. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng một người phụ nữ có thể làm bất cứ điều gì với một người đàn ông và uốn nắn anh ta theo cách phù hợp với cô ấy. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng chủ nghĩa hành vi không phủ nhận tầm quan trọng của gen và ảnh hưởng của chúng đối với hành vi của sinh vật. Ông cũng không phủ nhận sự xuất hiện của các trạng thái và cảm xúc bên trong sống trong chúng sinh, nhưng tin rằng chúng vô ích cho việc giải thích nguyên nhân của hành vi của các sinh vật.
Như bạn đã biết, có một số quan điểm khác nhau về chủ nghĩa hành vi. Các tính năng quan trọng nhất của hướng này là:
- Chủ nghĩa kinh nghiệm – lý thuyết về hành vi thừa nhận ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài (và đặc biệt là môi trường);
- Chủ nghĩa vật lý – theo các nhà hành vi, tất cả các lý thuyết và khái niệm tâm lý nên được rút gọn thành các khái niệm vật lý có thể đo lường được một cách khách quan;
- Chủ nghĩa thực chứng – phương pháp nghiên cứu rất quan trọng trong chủ nghĩa hành vi. Lý thuyết về hành vi dựa trên kiến thức khoa học;
- Chủ nghĩa thực dụng – điều quan trọng nhất đối với các nhà hành vi là giải quyết các vấn đề có ý nghĩa thiết thực, quan trọng đối với xã hội.
- Chủ nghĩa chức năng – điều quan trọng không phải là quan hệ nhân quả của hành vi, mà là sự xuất hiện chung và hậu quả của các sự kiện.
Hành vi của con người
Hành vi của con người là hành vi của các sinh vật liên quan đến một môi trường nhất định tại một thời điểm cụ thể. Đây cũng là những phản ứng khác nhau đối với các kích thích đến từ môi trường bên ngoài.
Ví dụ về hành vi của con người bao gồm:
- hành vi xã hội;
- hành vi nhận thức;
- hành vi tình dục;
- hành vi cưỡng chế;
- hành vi phản ứng;
- hành vi quyết đoán;
- hành vi chống đối xã hội;
- hành vi xã hội;
- hành vi khám phá;
- hành vi của tổ chức.
Ví dụ, hành vi xã hội là giúp đỡ người khác, bảo vệ người khác, trao đổi với người khác, nghĩa là mọi thứ nhằm mang lại lợi ích cho một người hoặc nhiều người.
Ngoài ra còn có những hành vi đặc trưng của một người nhất định, chẳng hạn như la hét (tức là phản ứng cảm xúc) khi nhìn thấy một con nhện, hoặc vui vẻ và tiếp cận thể chất tức thì với một con vật (ví dụ, một con chó) mà một người cho là thân thiện.